Kỹ thuật phòng trừ dịch hại, Phòng trừ dịch hại

Đời sống của Muỗi

Muỗi là một nhóm sinh vật thuộc lớp côn trùng hợp thành họ Culicidae, bộ Hai cánh (Diptera).

Chúng có một đôi cánh vảy, một đôi cánh cứng, thân mỏng, các chân dài. Muỗi đực hút nhựa cây và hoa quả để sống, muỗi cái hút thêm máu người và động vật. Kích thước thay đổi theo loài, nhưng ít khi lớn hơn vài mm. Đa số có trọng lượng khoảng 2 đến 2,5 mg. Chúng có thể bay với tốc độ 1,5 đến 2,5 km/h.

Muỗi đã tồn tại trên hành tinh của chúng ta khoảng 170 triệu năm. Họ Culicidae thuộc bộ Diptera và chứa khoảng 2700 loài trong 35 giốngAnopheles, Culex, Psorophora, Ochlerotatus, Aedes, Sabethes, Wyeomyia, Culiseta, Haemagoggus,… gồm

a). Đặc điểm sinh thái:

Một con bọ gậy, ấu trùng của muỗi. Bọ gậy phải thường xuyên bơi lên mặt nước, lấy ôxy trong không khí thông qua một ống thở ở đuôi. Đa phần chúng ăn các vi sinh vật trong nước để sống.

Muỗi sinh trưởng chủ yếu trong các đầm lầy, ao hồ hoặc các vũng nước đọng. Chúng đẻ trứng xuống nước, trứng nở thành ấu trùng gọi là bọ gậy hay lăng quăng. Bọ gậy sống trong nước một thời gian, sau phát triển thành nhộng, rồi biến thái thành muỗi trưởng thành, bay lên khỏi mặt nước.

Nhiệt độ thích hợp cho muỗi sinh trưởng và phát triển là khoảng 20 đến 25 độ C. Vì vậy chúng xuất hiện ở các nước nhiệt đới, trong đó có Việt Nam. Vòng đời của muỗi phụ thuộc loài và nhiệt độ, thay đổi từ vài ngày đến khoảng một tháng. Muỗi cái có vòi dạng đặc biệt có thể xuyên thủng da người và động vật để hút máu. Muỗi cái cần hút thêm máu để có nguồn protein để sản sinh ra trứng. Thức ăn bình thường của muỗi là nhựa cây và hoa quả, không chứa đủ protein cho muỗi cái. Muỗi đực không có vòi thích hợp để hút máu, và chỉ ăn nhựa cây và hoa quả. Cũng có một nhánh muỗi, tên là Toxorhynchites, không hút máu.

Muỗi cái xác định mục tiêu hút máu qua mùi vị và cảm nhận nhiệt. Chúng đặc biệt nhạy cảm với CO² trong hơi thở động vật và một số mùi trong mồ hôi. Một số người, ví dụ nam giới, béo và thuộc nhóm máu O, hấp dẫn muỗi nhiều hơn. Muỗi cảm nhận được tia hồng ngoại phát ra từ vật có thân nhiệt cao, nên dễ tìm được đến động vật và chim máu nóng.

Thường thì muỗi hay tập trung gần mặt đất và thường không di chuyển ra xa khỏi nơi chúng được sinh ra, nhưng đôi khi có thể bị gió đưa đi xa. Muỗi không phải là loài bay khỏe, tốc độ chỉ khoảng 1-2 km/giờ nên chỉ cần gió của quạt điện cũng hiệu quả tương tự như lưới ngăn muỗi.

Thường chúng kiếm ăn vào lúc sáng sớm, buổi chiều tối, đôi khi vào ban đêm. Tránh né sức nóng ban ngày. Vào ban ngày, chúng thường tìm nơi mát mẻ để nghỉ. Chúng thường sống ở những nơi ao hồ, vũng nước đọng hay những nơi cỏ rậm rạp.

b). Đặc điểm giải phẫu

Cơ thể muỗi bao gồm đầu, thân và bụng. Đầu có 2 mắt kép và vòi hút. Vòi dùng để hút máu của con mồi.  Trên phần đầu muỗi mắt chiếm phần lớn. Mỗi mắt gồm có nhiều thấu kính nhỏ tập hợp thành mắt kép. Cấu tạo này cho phép chúng có tầm nhìn rộng lớn, dễ dàng phát hiện sự chuyển động.

Phần ngực có 1 đôi cánh mỏng và 1 đôi cánh cứng. Trên ngực cũng có các vệt thường dùng để nhận dạng muỗi.
Phần bụng có thể căng to khi chúng hút máu con mồi. Trên bụng cũng có nhiều vệt dùng để nhận dạng muỗi.
Muỗi đực có kích thước cơ thể nhỏ hơn muỗi cái.

c). Vòng đời của muỗi.

Vòng đời của muỗi thuộc loại Biến thái hoàn toàn, tức là trải qua đầy đủ các giai đoạn phát triển gồm : trứng, ấu trùng, nhộng và con trưởng thành.

Trứng:Muỗi đẻ trứng mỗi trứng 1 lần hoặc đẻ từng mảng với hàng trăm trứng trên mặt nước. Muỗi Anopheles  và muỗi Aedes không bao giờ đẻ trứng thành từng cụm, chúng đẻ trứng riêng rẽ. Muỗi Culex, Culiseta và Anopheles đẻ trứng trên mặt nước trong khi muỗi Aedes đẻ trứng tại những nơi đất ẩm thấp nơi mà trước đó bị ngập lụt. Hầu hết trứng nở thành ấu trùng trong vòng 48 giờ. Một con muỗi cái có thể đẻ trứng mỗi đợt cách nhau 3 ngày nếu chúng có đủ lượng máu để cho trứng phát triển.

Ấu trùng:Ấu trùng sau khi nở sống trong nước, thường ngoi lên mặt nước để thở. Giai đoạn đầu tiên của ấu trùng sau khi nở gọi là ấu trùng giai đoạn 1. Trong quá trình phát triển, chúng sẽ lột xác khoảng 4 lần, cơ thể sẽ to lớn hơn sau mỗi lần lột xác. Các giai đoạn tiếp theo của ấu trùng được gọi là ấu trùng giai đoạn 2, ấu trùng giai đoạn 3 và ấu trùng giai đoạn 4.

Hầu hết các ấu trùng đều dùng 1 ống đặc biệt nhô lên khỏi mặt nước để thở, cũng như giúp chúng nổi gần bề mặt nước. Muỗi Anopheles không có ống này và chúng thường nằm song song với bề mặt nước. Hầu hết ấu trùng muỗi thường ăn các vi sinh vật trong nước, một số loài thì lại ăn ấu trùng của các loài muỗi khác. Ấu trùng muỗi sống trong nước khoảng 7 – 14 ngày tùy theo nhiệt độ của nước.

Ở lần lột xác cuối cùng, ấu trùng chuyển sang giai đoạn nhộng.

Nhộng:Nhộng nhẹ hơn nước nên chúng nổi trên bề mặt nước. Chúng mất khoảng 2 ngày để chuyển đổi từ giai đoạn ấu trùng thành con muỗi trưởng thành. Vì nhộng không có miệng nên trong giai đoạn này, chúng không ăn gì cả.

Muỗi trưởng thành:Muỗi trưởng thành mới thoát ra khỏi vỏ nhộng sẽ đậu trên mặt nước trong khoảng thời gian ngắn để hong khô cơ thể, làm chúng trở nên cứng cáp hơn để chúng có thể bay. Muỗi thường đẻ trứng ở nơi nước đọng.